Vitamin K là
một nhóm các vitamin hòa tan trong chất béo, giống nhau về cấu trúc mà cần cho có
một vai trò quan trọng trong sự điều chỉnh sự đông đặc cúa máu, vitamin K là
cần thiết hỗ trợ sự đông máu. Vitamin K hỗ trợ sự trao đổi chất của xương và
trao đổi chất của canxi trong hệ thống
mạch máu.
Có hai loại vitamin K dạng tự nhiên: Vitamin
K1 hay còn gọi là phylloquinone được tìm thấy trong thức ăn tự
nhiên. Vitamin K2 hay còn gọi là menaquinone. Dạng này được tạo ra bởi các loại
vi khuẩn có ích ở trong ruột.
Có 3 dạng vitamin K tổng hợp được biết: các vitamin K3,
K4, và K5. Dù vitamin K1 and K2 tự
nhiên là không độc, dạng tổng hợp K3 (menadione) đã tỏ ra độc
tính.
Lịch sử
Vitamin K đã được xác định năm 1929 bởi nhà khoa học người Đan
Mạch Henrik Dam khi ông nghiên cứu vai trò của cholesterol khi cho gà ăn chế độ ăn uống
không có cholesterol. . Sau vài tuần, những con gà này phát triển các chứng xuất huyết
và bắt đầu chảy máu. Các khiếm khuyết này không thể được phục hồi bằng cách bổ
sung cholesterol đã tinh chế vào chế độ ăn uống cho những con gà thí nghiệm.
Điều đó chứng tỏ rằng cùng với cholesterol - một hợp chất thứ 2 đã được chiết
xuất từ thực phẩm, và hợp chất này được gọi là vitamin đông máu. Vitamin mới
nhận được chữ K, vì những khám phá ban đầu được báo cáo trong một tạp chí Đức,
trong đó nó đã được chỉ định là Koagulationsvitamin. Edward Adelbert Doisy của
trường Đại học Saint Louis đã làm nhiều nghiên cứu và dẫn đến việc khám phá ra
bản chất cấu trúc và hóa học của vitamin K.. Dam và Doisy chia sẻ giải thưởng Nobel Y học-Sinh lý học năm 1943 về cho
việc công bố công việc của họ về vitamin K (K1 và K2) xuất bản năm 1939. Những
phát hiện về vitamin K đã mang đến giải Nobel
Y học-Sinh lý học cho hai nhà khoa học Henrik Dam và Edward Adelbert Doisy vào
năm 1943 . Adelbert Doisy đã có công phát hiện Vitamin K vào năm 1927. TS.
Dam đã lý giải được quy trình đông máu cần có Vitamin K. Ông còn phát hiện ra
vitamin K có trong tất cả các loại rau quả và đậu như cà chua, đậu nành, cỏ
linh lăng và một số động vật. Năm 1939, Doisy và cộng sự xác định cấu trúc của
vitamin K. Đến năm 1943: Dam&Doisy nhận giải Nobel Sinh lý học-Y học từ
việc khám phá ra vitamin K và vai trò của nó trong sự đông máu 1983: Price và
cộng sự phát hiện khả năng ức chế sự vôi hoá của Matrix Gla-protein Cho đến năm
1997: Lou và cộng sự chứng minh vai trò của MGP đối với hệ tim mạch bằng cách gây
đột biến trên chuột. 2007: Schurgers và cộng sự công bố khám phá về hoạt tính
sinh học của Menaquinone-7 (MK-7), một dạng vitamin K2, được tạo ra trong quá
trình lên men của vi khuẩn. MK-7 có trong các sản phẩm lên men từ đậu nành, sữa
2008: Gast và cộng sự chứng minh khả năng cải thiện sức khoẻ tim mạch của MK-7.
Hiện nay, Vitamin K2 được sản xuất theo phương pháp truyền thống
"Natto" với công nghệ tiên tiến tại Nhật Bản. Natto được làm từ đậu
nành lên men là nguồn tự nhiên giàu Vitamin K2 nhất mang thương hiệu MenaQ7,
một công nghệ độc quyền. MenaQ7 là vitamin K2 duy nhất có nguồn gốc thiên nhiên
Vitamin K1
Có nhiều trong các loại rau xanh (cải, bông cải,…), dầu thực vật
(dầu đậu nành), trái cây (bơ, kiwi, nho,…). Tuy nhiên, chỉ 5-10% lượng vitamin
K1 được hấp thu ở đường tiêu hoá từ nguồnt thực phẩm
Vitamin K1 giữa vai trò hoạt hoá yếu tố đông máu ở gan.
Vitamin K1 giữa vai trò hoạt hoá yếu tố đông máu ở gan.
Vitamin K2
Công dụng
Tăng cường chức năng của tế bào nội mô mạch máu, chống xơ vữa động mạch,
chống tắc nghẽn mạch, tránh nhồi máu cơ tim,
đau thắt ngực
Kích hoạt protein osteocalcin, giúp gắn ion canxi vào khung xương, ngăn ngừa loãng xương. Kanellakis S và cộng sự (năm, 2012) đã công bố kết quả nghiên cứu hiệu quả của sự kết hợp canxi, vitamin D3 và vitamin K2 trong việc tăng mật độ khoáng trong xương ở 173 phụ nữ mãn kinh. Sau 12 tháng thử nghiệm, kết quả xử lý thống kê cho thấy mật độ khoáng trong xương cột sống của nhóm bổ sung 800 mg canxi, 10 mcg vitamin D3 và 100 mcg vitamin K2 tăng đáng kể so với nhóm đối chứng và cao hơn so với nhóm chỉ bổ sung canxi và vitamin D3.
Kích hoạt protein osteocalcin, giúp gắn ion canxi vào khung xương, ngăn ngừa loãng xương. Kanellakis S và cộng sự (năm, 2012) đã công bố kết quả nghiên cứu hiệu quả của sự kết hợp canxi, vitamin D3 và vitamin K2 trong việc tăng mật độ khoáng trong xương ở 173 phụ nữ mãn kinh. Sau 12 tháng thử nghiệm, kết quả xử lý thống kê cho thấy mật độ khoáng trong xương cột sống của nhóm bổ sung 800 mg canxi, 10 mcg vitamin D3 và 100 mcg vitamin K2 tăng đáng kể so với nhóm đối chứng và cao hơn so với nhóm chỉ bổ sung canxi và vitamin D3.
Cơ chế
Vitamin K2 có vai trò hoạt hoá protein MGP,
giúp MGP chuyển từ dạng bất hoạt (ucMGP) sang dạng hoạt động (cMGP). Ở trạng thái
hoạt động (cMGP), protein này gắn với ion Ca trong máu, ngăn không cho chúng
lắng đọng xuống thành mạch. Do đó ngăn ngừa vôi hoá mạch máu, giảm thiểu nguy
cơ tắc nghẽn mạch máu do xơ vữa động mạch.
Lịch sử
Những phát hiện về vitamin K đã mang đến giải Nobel
Y học-Sinh lý học cho hai nhà khoa học Henrik Dam và Edward Adelbert Doisy vào
năm 1943 . Adelbert Doisy đã có công phát hiện Vitamin K vào năm 1927. TS.
Dam đã lý giải được quy trình đông máu cần có Vitamin K. Ông còn phát hiện ra
vitamin K có trong tất cả các loại rau quả và đậu như cà chua, đậu nành, cỏ
linh lăng và một số động vật. Năm 1939, Doisy và cộng sự xác định cấu trúc của
vitamin K. Đến năm 1943: Dam&Doisy nhận giải Nobel Sinh lý học-Y học từ việc
khám phá ra vitamin K và vai trò của nó trong sự đông máu 1983: Price và cộng
sự phát hiện khả năng ức chế sự vôi hoá của Matrix Gla-protein Cho đến năm
1997: Lou và cộng sự chứng minh vai trò của MGP đối với hệ tim mạch bằng cách
gây đột biến trên chuột. 2007: Schurgers và cộng sự công bố khám phá về hoạt
tính sinh học của Menaquinone-7 (MK-7), một dạng vitamin K2, được tạo ra trong
quá trình lên men của vi khuẩn. MK-7 có trong các sản phẩm lên men từ đậu nành,
sữa[3] 2008: Gast và cộng sự chứng minh khả năng cải thiện sức khoẻ tim mạch
của MK-7. Hiện nay, Vitamin K2 được sản xuất theo phương pháp truyền thống
"Natto" với công nghệ tiên tiến tại Nhật Bản. Natto được làm từ đậu
nành lên men là nguồn tự nhiên giàu Vitamin K2 nhất mang thương hiệu MenaQ7,
một công nghệ độc quyền. MenaQ7 là vitamin K2 duy nhất có nguồn gốc thiên nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét